Phong Hữu - Theo greencar

Hệ thống OBD trên ô tô ban đầu chỉ thiết kế để giảm lượng khí thải

(News.oto-hui.com) – OBD viết tắt của “On Board Diagnostics”. Hệ thống OBD trên ô tô là một hệ thống dựa trên máy tính ban đầu chỉ được thiết kế để giảm lượng khí thải bằng cách giám sát hoạt động của các bộ phận trên động cơ. 

Cổng chẩn đoán OBD

Một hệ thống OBD cơ bản bao gồm ECU (Bộ điều khiển điện tử), sử dụng đầu vào từ nhiều cảm biến khác nhau (ví dụ: cảm biến oxy) để điều khiển bộ truyền động (ví dụ: kim phun nhiên liệu) để có được hiệu suất mong muốn. Đèn báo kiểm tra động cơ sáng, còn được gọi là MIL ( Malfunction Indicator Light, còn gọi là đèn Check Engine), đưa ra cảnh báo sớm về sự cố cho chủ sở hữu xe. Một chiếc xe hiện đại có thể hỗ trợ hàng trăm thông số, có thể được truy cập thông qua DLC (Trình kết nối liên kết chẩn đoán) bằng cách sử dụng một thiết bị gọi là công cụ quét.

Các bộ phận của hệ thống OBD

Hệ thống OBD được cấu thành từ những bộ phận cơ bản bao gồm hộp ECU ( Electronic Control Unit) điều khiển động cơ. Và hộp ECU sẽ nhận tín hiệu từ các cảm trên động cơ như cảm biến trục cơ, trục cam hay cảm biến oxy… để có thể điều khiển các cơ cấu chấp hành như kim phun, bô bin… nhằm nâng cao sự chính xác trong vận hành của động cơ.

Các bộ phận của hệ thống OBD
Các bộ phận của hệ thống OBD

ECU sẽ tự chẩn đoán và cài đặt vào bộ nhớ mã lỗi được thiết lập từ trước khi động cơ gặp phải vấn đề, lúc này đèn Check Engine hoặc MIL (Malfunction Indicator Light) sẽ sáng lên báo cho các tài xế biết xe đang gặp phải vấn đề và cần sửa chữa kịp thời.

Mục đích khi hệ thống OBD ra đời?

Một lý do duy nhất khi OBD ra đời là để đáp ứng yêu cầu về khí thải và bảo vệ môi trường. Để đối phó với nạn sương mù ở Mỹ, Từ năm 1966 tại bang California đã yêu cầu kiểm soát các vấn đề về khí thải trên các xe sản xuất ra năm đó và có hiệu lực trên toàn liên bang Mỹ vào năm 1968.

Sau đó viện bảo vệ môi trường EPA (Environmental Protection Agency) cũng ra đời vào năm 1970 do quốc hội Mỹ thành lập. Sau đó họ đã ban hành một loạt các tiêu chuẩn về khí thải cũng như các yêu cầu về bảo dưỡng xe để đạt được lượng khí thải tiêu chuẩn trong phạm vi cho phép mà họ đặt ra.

Nhìn chung các tiêu chuẩn này ngày càng nhiều và trở nên khắc nghiệt đòi hỏi các nhà sản xuất ô tô không còn cách nào khác phải ứng dụng điện tử vào việc điều khiển động cơ bởi vì dữ liệu được đưa vào ECU nhờ các cảm biến là vô cùng chính xác. Bên cạnh đó điều khiển thời gian đánh lửa và lượng phun nhiên liệu được điều khiển bằng ECU là tối ưu hơn cả so với điều khiển bằng cơ khí thông thường. Theo xu hướng đó dần dần các nhà sản xuất ô tô đều ứng dụng điện tử để điều khiển động cơ của họ và từ đó hệ thống OBD ra đời.

Các loại hệ thống OBD

Các loại OBD
Các loại OBD

OBD-I đề cập đến các hệ thống OBD thế hệ đầu tiên được phát triển trong suốt những năm 1980. Những hệ thống ban đầu này sử dụng các đầu nối độc quyền, giao diện phần cứng và giao thức. Một thợ máy muốn truy cập thông tin chẩn đoán thường phải mua một công cụ cho mỗi chiếc xe khác nhau. Các công cụ quét OBD-I hỗ trợ nhiều giao thức được cung cấp với một loạt các cáp bộ điều hợp khác nhau.

Đầu những năm 1990, Hiệp hội kỹ sư ô tô (SAE) và Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) đã ban hành một bộ tiêu chuẩn mô tả việc trao đổi thông tin kỹ thuật số giữa ECU và một công cụ quét chẩn đoán. Tất cả các phương tiện tuân thủ OBD-II được yêu cầu sử dụng đầu nối chẩn đoán tiêu chuẩn (SAE J1962) và liên lạc qua một trong các giao thức truyền thông chuẩn OBD-II.

OBD-II được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1994 (MY) năm 1994, và trở thành một yêu cầu cho tất cả các xe ô tô và xe tải nhẹ bắt đầu từ MY1996.

Và mới nhất hiện này là OBD-III có thể sớm xuất hiện!

Phát triển hệ thống OBD lên các hệ thống khác

Với việc ban đầu chỉ nhằm mục đích để giám sát hoạt động về các vấn đề cho động cơ thì sau này hệ thống OBD đã cải tiến và phát triển thêm những hệ thống xử lý thông minh khác. Vì vậy mà giờ đây trên các hệ thống thông minh và an toàn của xe từ hệ thống phanh ABS, lái điện, điều khiển, giao tiếp… đều hoạt động dựa trên nguyên lý OBD. Điều đó có nghĩa các hệ thống trên sẽ có riêng 1 hộp ECU điều khiển và nhận tín hiệu từ các cảm biến đồng thời điều khiển cơ cấu chấp hành. Ví dụ như hình dưới đây về hệ thống ABS:

Phát triển hệ thống OBD lên các hệ thống khác
Phát triển hệ thống OBD lên các hệ thống khác

Bài viết liên quan:

Advertisement

Chia sẻ ý kiến của bạn

Thông Tin Cá Nhân

NamNữ

Trình Độ Học Vấn

Thông tin chung

Kỹ thuật viên sửa chữa chungKỹ thuật viên sơnKỹ thuật viên đồngKỹ thuật viên điệnChăm sóc, làm đẹp, Detailing ô tôCố vấn dịch vụBán hàng (Sales)Nhân viên phụ tùngThiết kếMarketingKiểm soát chất lượng (PDI)Quản đốc xưởngTrưởng/phó phòng dịch vụTrưởng/phó phòng kinh doanhTrưởng/phó phòng kỹ thuậtGiám đốc điều hànhChưa có kinh nghiệmKhác